Thích Học Toán

Độc quyền chân lý

with 26 comments

Đây là bản gốc của bài phỏng vấn trên báo Tuổi trẻ cuối tuần với nhan đề gốc là Không có ai độc quyền chân lý.

*****

Nhân dịp chào xuân Nhâm Thìn, Giáo sư Ngô Bảo Châu đã trải lòng với Tuổi Trẻ Cuối tuần những suy nghĩ của ông về vai trò phản biện của trí thức cũng như giải pháp đòn bẩy có sẵn ngay trong những điểm bất hợp lý…

Giải pháp có sẵn ở điểm bế tắc

Thưa giáo sư, lần đầu tiên kể từ khi thành danh ở xứ người, năm qua giáo sư đã dành thời gian làm việc tại quê nhà suốt 3 tháng ròng. Trong 3 tháng đó có gì làm cho giáo sư thất vọng hay ngược lại, giáo sư có điều gì để hy vọng?

Thực ra không có gì phải thất vọng đâu chị, mặc dù khi tôi về mọi việc thật ngổn ngang. Tháng 6/2011, bộ máy hành chính của viện Nghiên cứu Cao cấp (NCCC) về Toán mới bắt đầu hoạt động. Khi ta muốn xây dựng một cái gì từ con số không, thì khó khăn là tất yếu. GS Lê Tuấn Hoa, Giám đốc Điều hành của viện và tôi đã xác định trước là mình phải rất cố gắng trong giai đoạn này.

Hy vọng thì nhiều. Qua dịp hè vừa rồi, tôi cảm thấy thấy sự ủng hộ của Chính phủ dành cho Viện là tương đối chắc chắn. Tuy thế những khó khăn mang tính chất hành chính thì vẫn muôn hình vạn vẻ, nhưng tôi hy vọng là giai đoạn này cũng sẽ chóng kết thúc để năng lượng được dồn vào những việc thực sự bổ ích là làm khoa học.

Cái không dễ chút nào chúng tôi là giải thích với các Bộ có chức năng rằng khoa học thực sự, đặc biệt là khoa học cơ bản rất khó làm được trên nguyên tắc đơn đặt hàng. Vai trò của Viện là nhìn thấy những nhóm nghiên cứu mới có tiềm năng, hỗ trợ cho họ về cơ sở vật chất, môi trường làm việc. Tôi rất hy vọng là trong thời gian tới sẽ có nhiều nhà khoa học chủ động đến với Viện với những dự định mà mình ấp ủ.

Nói như vậy không có nghĩa là Vieện NCCC không chú trọng những đơn đặt hàng nghiên cứu toán ứng dụng. Đây là một hướng mà chúng tôi mong muốn sẽ làm được ngày một nhiều trong tương lai.

Hè 2011 cũng là thời gian giáo sư dành nhiều thời gian để giao lưu với giới trẻ nhiều tỉnh thành. Những cuộc giao lưu đó mang đến cho giáo sư những cảm xúc như thế nào và các bạn trẻ ấy có tạo được những ấn tượng đặc biệt với giáo sư?

Cảm xúc mạnh nhất là niềm vui khi cảm thấy dường như mình đang mang đến cho các bạn trẻ được cái gì tốt đẹp, ít nhất là niềm tin vào một cái gì đó tốt đẹp.

Ấn tượng tích cực nhất tôi có được trong những buổi gặp gỡ đó, là tính hướng thiện của các bạn trẻ. Còn có một sự khác biệt tương đối rõ nét giữa những người trưởng thành mà tôi quen biết với các bạn trẻ mà tôi gặp trong các buổi giao lưu. Nếu như nhiều người tôi quen, những người có vị trí xã hội, có thành công trong sự nghiệp hoặc đơn giản là rất giàu, có một cái nhìn rất bi quan về thực tế xã hội thì các bạn trẻ vẫn tràn trề lạc quan và đầy niềm tin vào tương lai.

Không chỉ các bạn trẻ trong nước đang chờ mong nhiều ở giáo sư mà nhiều bạn trẻ đang làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài cho biết, họ hy vọng viện NCCC về Toán sẽ là mồi nhóm để thổi bùng ngọn lửa đam mê khoa học trong giới nghiên cứu, từ đó thay đổi môi trường làm việc trong các trường đại học. Giáo sư nghĩ sao?

Tôi nghĩ rằng ngọn lửa đam mê khoa học thì đã có sẵn trong nhiều bạn trẻ rồi. Vấn đề là làm thế nào biến những ngọn lửa đó thành những nhà khoa học chuyên nghiệp. Tôi hy vọng Viện NCCC về Toán sẽ làm được việc đó, đầu tiên là với toán, toán ứng dụng, sau đó là những ngành khoa học có liên quan đến toán như khoa học máy tính, vật lý lý thuyết. Nhưng với qui mô nhỏ của Viện, chúng ta không thể chờ đợi nó giải quyết mọi vấn đề (rất nhiều) của khoa học Việt nam. Nếu ta muốn thực sự thay đổi diện mạo của khoa học Việt Nam, theo tôi nghĩ cái cần làm nhất (mà chắc ai cũng biết) là đặt chất lượng nghiên cứu khoa học lên như một nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của các trường đại học. Tất nhiên, nếu tính chất ưu tiên hàng đầu không phải là nói suông, thì nó sẽ kéo theo nhiều chính sách khác.

Nói đến chuyện thay đổi chính sách là tôi lại băn khoăn. Hình như cái mà ta làm cho đến nay là thấy cái gì chưa ổn thì ta sửa lại, sắp xếp lại, mà ít để ý đến sự vận động tự nhiên của cuộc sống.

Giáo sư có thể giải thích rõ hơn nhận xét này được không?

Đơn cử hai vấn đề có tính thời sự hiện nay là việc phát triển mạng lưới ĐH và lương giáo viên. Căn cứ vào tỉ lệ số lượng sinh viên trên tổng số người ở độ tuổi đi học, ta nhận thấy Việt Nam có một tỉ lệ rất thấp so với các nước khác, đã phát triển hoặc đang phát triển. Ta suy ra rằng cần phải có thêm bao nhiêu sinh viên, mở thêm bao nhiêu trường ĐH. Câu chuyện này thoạt nghe thì có vẻ rất đơn giản, mạch lạc. Cũng giống như lương giáo viên, ai cũng thấy là nó rất thấp, không đủ để giáo viên tái tạo sức lao động, vì vậy cần phải tăng lương cho giáo viên và công nhân viên chức nói chung. Đặt ra vấn đề như vậy là rất đúng rồi, nhưng phương pháp luận trong việc giải quyết vấn để thì có thể chưa ổn.

Thay vì ồ ạt mở thêm trường đại học, nâng cấp cao đẳng lên đại học, hoặc là tăng lương công chức một cách đồng loạt, nên chăng coi đó như là một xu hướng để nhân cái đà đó mà cải thiện chất lượng các trường, cải thiện năng suất và chất lượng lao động của công chức nhà nước. Nói cách khác, những cái bất hợp lý hiện tại có thể làm đòn bẩy cho tương lai, làm điểm tựa cho những vận động tích cực của xã hội. Tôi cũng hiểu là bàn chung chung như thế này thì dễ, làm cụ thể như thế nào khó hơn nhiều. Nhưng rõ ràng những biện pháp thuần túy mang tính hành chính sẽ làm triệt tiêu cái đòn bẩy, lợi thế duy nhất của sự bất hợp lý.
Trong chuyện tăng lương cũng vậy. Tôi cảm thấy hình như việc tăng lương đồng loạt cho viên chức không cải thiện mức sống của họ mà chỉ làm tăng lạm phát. Chính phủ có thể tác động lên thu nhập của giáo viên bằng những qui định cơi mở và minh bạch hơn. Tôi lấy ví dụ chuyện chạy trường mà ai cũng biết. Liệu có thể cho phép một số trường tốt có một cơ số học sinh trái tuyến với qui định minh bạch mức lệ phí, có thể rất cao cho học sinh trái tuyến ? Tiền lệ phí được thu một cách minh bạch có thể sử dụng trả một mức phụ cấp cho giáo viên một cách minh bạch. Phụ cấp có thể thấp, cao hoặc rất cao tùy thuộc vào năng lực của giáo viên. Câu chuyện này thực chất đang xảy ra trong thực tế nhưng dưới những hình thức không minh bạch. Nếu có qui định rõ ràng, nhà nước cũng sẽ có thêm phương tiện để điều chỉnh.

Không ai độc quyền chân lý

Gần đây phong trào phản biện của giới trí thức ngày càng sôi nổi. Thậm chí người ta còn cho rằng người lao động trí óc sẽ chưa đạt tầm của một trí thức nếu chỉ biết làm công việc chuyên môn của mình mà chưa bộc lộ được năng lực phản biện xã hội. Còn giáo sư thì suy nghĩ thế nào về trách nhiệm phản biện xã hội của giới trí thức cũng như vai trò của giới trí thức trong xã hội?

Tôi không đồng ý với việc coi phản biện xã hội như chỉ tiêu để được phong hàm “trí thức”. Đến bao giờ chúng ta mới thôi thi đua để được phong hàm “trí thức” ?

Đối với tôi, trí thức là người lao động trí óc. Cũng như những người lao động khác, anh ta cần được đánh giá trước hết trên kết quả lao động của mình. Theo quan niệm của tôi, giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biển xã hội.

Một mặt khác, cần trân trọng những người trí thức, hoạc không trí thức, tham gia công tác phản biện xã hội. Không có phản biện, xã hội đã chết lâm sàng.

Những người có học, có tri thức thực ra cần phải rất tỉnh táo khi tham gia vào việc phản biện xã hội. Học hàm học vị không thể đảm bảo rằng cái anh nói ra, mặc nhiên đúng. Với thói quen làm việc khoa học của mình, cái mà anh có thể làm là đưa ra những lập luận vững chắc và có tính thuyết phục. Nhà lãnh đạo văn minh, có bản lĩnh sẽ biết lắng nghe những lập luận đó. Họ có thể làm theo hoặc không làm theo kết luận của anh. Trong trường hợp họ không làm theo, vẫn dưới giả thiết là lãnh đạo văn minh và có bản lĩnh, lãnh đạo cũng sẽ phải đưa ra những lập luận ít nhất cũng vững chắc bằng những lập luận của anh để bảo vệ quyết định của mình.

Tôi quan niệm vai trò của trí thức là như vậy, anh ta có vai trò gây sức ép lên người lãnh đạo, nhưng cũng như lãnh đạo, anh ta không độc quyền chân lý.

Giáo sư có nói cần khuyến khích mọi thành phần trong xã hội phát biểu ý kiến của mình và lãnh đạo phải lắng nghe tất cả những ý kiến đó. Nhưng điều quan trọng là cuối cùng lãnh đạo cần phải có một quyết định, vậy việc quyết định nên căn cứ vào đâu?

Nếu có một thuật toán để ra quyết định trong mọi trường hợp thì chắc không cần đến lãnh đạo nữa mà thay bằng một cái máy tính. Người lãnh đạo có bản lĩnh sẽ có những hành động nhất quán, chứ không được chăng hay chớ. Đi cùng với sự nhất quán là tính chủ quan, ở đây nếu lắng nghe ý kiến phản biện, người lãnh đạo sẽ tránh được những sai lầm không thể cứu vãn. Theo tôi phẩm chất quan trọng nhất của người lãnh đạo là tính lương thiện, ít nhất là lương thiện vừa đủ để không tự lừa mình bằng những điều viển vông và không tự bao biện cho những sai lầm của mình.

Để tận dụng được cái khả năng suy nghĩ của trí thức, lãnh đạo nên chăng chia sẻ thông tin với họ để nhận được lời tư vấn tốt nhất trước khi đưa ra quyết định?

Đối với người lãnh đạo, chia sẻ thông tin là một việc khó, như từ bỏ một phần quyền lực của mình. Thông tin hoàn toàn mở, anh lãnh đạo sẽ phải tranh luận với anh trí thức trong tình huống cân bằng vũ trang và chưa chắc anh lãnh đạo đã thắng.

Nhưng thực ra, cởi mở thông tin, tranh luận với trí thức, với những người nằm ngoài bộ máy chính là một cách tiếp năng lượng cho anh lãnh đạo, vẫn với giả thiết lãnh đạo văn minh và có bản lĩnh. Để làm được việc, anh lãnh đạo luôn phải phụ thuộc vào bộ máy của mình. Nếu không cởi mở, dừng tranh luận, những quyết định của anh sẽ dần dần chịu ảnh hưởng của bộ máy, phục vụ lợi ích của bộ máy chứ không ưu tiên phục vụ xã hội nữa.

Năm qua là năm có nhiều hoạt động phản biện của giới trí thức trong nước cũng như ngoài nước. Nhiều bản kiến nghị về các vấn đề vĩ mô đã được các trí thức ký tên gửi các lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước. Giáo sư đánh giá thế nào về các hoạt động này? Là một trí thức, giáo sư có muốn đóng góp tiếng nói của mình vào trào lưu chung đó?

Cá nhân tôi thường tránh bàn luận các vấn đề mà tôi không biết rõ. Tôi quan tâm nhiều hơn tới những lĩnh vực mà tôi có thể trực tiếp tham gia hành động thay vì chỉ nêu ý kiến. Nhưng tôi cho rằng, việc đưa ra các phản biện có lập luận chặt chẽ … là những đóng góp lớn cho xã hội, cho đất nước của giới trí thức. Tuy nhiên, trước khi lên tiếng về một vấn đề nào đó, người trí thức hơn ai hết cần phải hết sức ý thức về ảnh hưởng của nó. So sánh thì rất khập khiễn vì thường thì chúng ta không nói đến chuyện sống chết. Nhưng tôi luôn nhớ câu Chế Lan Viên viết trong bài thơ Ai? Tôi?: “Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng, Chỉ một đêm, còn sống có 30, Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó? Tôi! Tôi – người viết những câu thơ cổ võ, Ca tụng người không tiếc mạng mình, trong mọi cuộc xung phong”.

Cảm ơn giáo sư!
Thư Hiên (thực hiện)

Written by Ngo Bao Chau

30/01/2012 lúc 10:12

Posted in Đối thoại

26 bình luận

Subscribe to comments with RSS.

  1. Độc quyền chân lý…lạ thay!
    Bao nhiêu cái đúng cứ say…cái gàn
    Độc quyền chân lý…miễn bàn!
    Bấy nhiêu thứ dở cứ tràn… thứ hay
    Độc quyền chân lý….cũng hay!
    Đàn ông chuyển giới thành Gay, với Gàn
    Độc quyền chân lý …sẽ tàn!
    Để cho chân thật, đắt hàng…chiếm ngôi

    Hà Thiên Hậu,

    hathienhau

    30/01/2012 at 10:31

    • Hay quá, bài viết của Ngô Bảo Châu thật tuyệt, bài thơ “họa” của Hà Thiên Hậu cũng hay. Giáo sư tóan có khác, phát biểu mạch lạc và chuẩn không thể chê!

      Thu Vân

      01/02/2012 at 19:59

  2. Đọc cái này thấy câu nói của Châu về “lề phải” và “lề trái” đã “nghiệm”. (nhân tiện, nên biết rằng chú là người đầu tiên bêu cái “lề phải” của tay Bốn T vầ làm cho nó “bất tử- trên Talawas. Sau đó, nhiều người dùng “lề trái” chỉ là chơi chữ để phản ứng lại. Nhưng rồi thực tế đã xuất hiện không ít “lề trái” thứ thiệt) Chú ít thấy người trẻ nào thâm trầm, bản lĩnh như Châu. Rất tin!

    Hoàng Hưng

    30/01/2012 at 12:52

  3. Oleshuk Iu. F. – Trí thức nửa mùa

    Giới trí đang bị nhiều người chỉ trích. Họ bị coi là người chịu trách nhiệm về những cuộc cải cách đầy tai hoạ hồi những năm 1990. Hơn nữa, có thể nhận thấy rõ xu hướng là người ta không chỉ lên án giới trí thức về chuyện đó, mà còn vì vai trò của họ trong lịch sử đất nước nói chung, bắt đầu gần như từ nửa sau thế kỷ XIX, tức là từ khi những nhà cách mạng “thông ngôn kí lục” bước vào con đường khủng bố. Những lời kết án mang tính khái quát như thế không làm ai ngạc nhiên. Chúng ta, một đất nước có truyền thống phản trí thức, một truyền thống đã mang đến không ít đau khổ cho cả trí thức lẫn nước Nga.

    Tác giả không có ý định phán xét trách nhiệm của giới trí thức về những việc mà người ta quy cho họ trong quá khứ (chủ nghĩa phiêu lưu chính trị, thái độ cuồng tín cách mạng v.v…). Nhưng là một nhân chứng của những sự kiện diễn ra trong giai đoạn cải cách – tức là những sự kiện diễn ra trong hai mưoi năm gần đây – tôi có thể đánh bạo mà khẳng định rằng: giới trí thức không tham gia vào việc đó.

    Cái dư luận xã hội đang đổ mọi tội lỗi lên giới trí thức, theo tôi là đã có một sai lầm căn bản. Nó cho rằng dường nó như biết được giới trí thức là gì và ai là những người trí thức vậy.

    Nói chung, hiếm khi tách biệt và xác định được bản sắc của giới trí thức – không phải ngẫu nhiên mà trong những câu chuyện về giới trí thức người ta luôn phải sử dụng những định thức khác nhau nhằm bổ sung và mở rộng khái niệm này (“giới trí thức sáng tạo”, “mang tính tích cực xã hội”, “cảm thấy có trách nhiệm đối với đất nước”, “sống bằng những nhu cầu tinh thần”). Nhưng trong trường hợp này vấn đề không phải là những người kết án giới trí thức đã sử dụng một phạm trù mà họ không hiểu (xin hãy hỏi họ trí thức là gì – nhất định họ sẽ bị lúng túng trong việc trả lời). Họ đã bỏ qua một sự kiện quan trọng nhất: Ở nước Nga, trong thế kỷ XX đã hình thành một tầng lớp xã hội, được coi là trí thức, nhưng trên thực tế lại không phải là như thế. Chính các đại diện của tầng lớp này, chứ không phải giới trí thức, đã đóng vai trò chủ yếu trong những cuộc cải cách đầy tai hoạ hồi những năm 80 và những năm 90 của thế kỷ vừa qua. Đấy là tầng lớp trí thức nửa mùa. Dĩ nhiên là sau khi đã đưa ra định nghĩa, tác giả phải minh giải nó.

    Theo tôi tầng lớp trí thức nửa mùa được hình thành từ một kiểu người đặc biệt và tương đối phổ biến. Trước hết đấy là người có học, có văn hóa, lại thường giữ chức vụ chứng tỏ những phẩm chất đó của anh ta. Nhưng nếu tiếp xúc lâu ta sẽ thấy: trình độ học vấn, kiến thức của anh ta không nhiều, nhu cầu văn hóa cũng thiếu hụt. Thực chất, dù có mang một vẻ hào nhoáng trí thức bên ngoài thì đấy cũng chỉ là một “kẻ thất phu” mà thôi.

    Vâng, như một người trí thức, dĩ nhiên là anh ta quan tâm đến công việc xã hội. Tầm hiểu biết của anh ta dường như cũng vượt ra khỏi các nhu cầu và tính toán cá nhân nữa. Thế gọi là tầm hiểu biết! Thế gọi là có quan điểm về những chuyện đang xảy ra xung quanh! Thường là chỉ ở mức tán nhảm của mấy gã chợ trời mà thôi. Không cao hơn cũng không sâu hơn một tí nào.

    Một đặc điểm nữa – cũng là đặc điểm phân biệt anh ta với người trí thức chân chính – hoàn toàn không biết tư duy độc lập về các đề tài xã hội. Không, tư tưởng thì có thể có trong đầu, nhiều nữa là đằng khác, nhưng tất cả đều không phải của mình, tất cả đều là học mót được. Thái độ thuần phục giữ vai trò chủ đạo trong giới trí thức nửa mùa, đấy là quan điểm thịnh hành chung cho cả giai tầng này. Họ theo nó một cách tự tin vì những người này không thể tự nghĩ ra được quan điểm nào khác để thay thế cho nó. Tạo ra thái độ thuần phục là một việc đơn giản. Giới trí thức nửa mùa có đặc điểm là bao giờ cũng phải có thần tượng, những người có uy tín, những nhân vật để mà tôn sùng. Trong nước Nga xã hội chủ nghĩa thời gian qua, khi mà giới trí thức nửa mùa hình thành và phát triển, thì thần tượng của họ thường là những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa và văn học – những người tích cực về mặt xã hội, có tinh thần phê phán-tranh luận về các vấn đề xã hội. Giới trí thức nửa mùa lĩnh hội quan điểm về hiện thực xung quanh từ những người như thế.
    Một đặc điểm nữa của giới trí thức nửa mùa: thái độ hung hăng khi bàn về các vấn đề xã hội. Giới trí thức nửa mùa cho rằng mình là giai tầng đứng trên “quần chúng” và nói chung là đứng trên tất cả mọi thứ khác nữa. Giai tầng này có thói kiêu ngạo tập thể đặc thù và rất mạnh. Từ lâu họ đã tin tưởng rằng chỉ cần giao cho họ – giao cho những người đại diện của họ – quyền lực là mọi tai hoạ của đất nước sẽ được giải quyết ngay lập tức. Chứ còn gì nữa: họ chẳng phải là người truyền bá kiến thức đấy ư? Chẳng phải là những người có học nhất và thông minh nhất đang đứng trong đội ngũ của họ đấy ư?

    Xin ghi nhận một tính chất nữa của giới trí thức nửa mùa: không chịu “tu thân”, đấy là nói theo cách ngày xưa. Không chịu đọc bất cứ một cái gì nghiêm túc, không chịu suy nghĩ một cách rốt ráo về bất cứ đề tài nào. Thường thì công việc tư duy độc lập được thay thế bằng việc nghe lỏm ý kiến và đánh giá của các nhân vật có uy tín và tuân theo một cách vô điều kiện. Có lẽ, ít nhất là một phần, sự lười biếng và thụ động về trí tuệ như thế là do giới trí thức nửa mùa thực sự tin rằng mình đã là trung tâm của kiến thức rồi. Nếu không cần cố gắng mà vẫn là trung tâm thì cố gắng để làm gì?

    Cuối cùng, trí thức nửa mùa còn có đặc điểm nữa là tự ái về chính trị, một đặc điểm đương nhiên một khi người ta đã đánh giá mình cao đến như thế. Hóa ra là thế này: chúng tôi biết hết, chúng tôi có thể làm được tất – thế mà chúng tôi bị gạt ra khỏi quyền lực, ở đó chỉ toàn các “quan chức”, “toàn bọn quan liêu ngu dốt”, “tư duy hạn chế”. Đánh giá thấp về người khác và đánh giá quá cao về chính mình đã tạo ra thái độ tự ái về chính trị như một tâm trạng bền vững “nội tại” của giai tầng này. Đau đớn và phẫn nộ là thái độ thường trực của giai tầng đó.

    Như vậy là trí thức nửa mùa chỉ là một kẻ giả danh trí thức. Hắn dùng bằng cấp, chức vụ và phô trương thái độ quan tâm đối với các vấn đề xã hội để đóng giả. Hắn đóng giả cả cách giải trí, cả thói đam mê mang tính phô trương về tất cả những gì gọi là “văn hóa” nữa. Đây hóa ra là chỗ dễ phân biệt trí thức nửa mùa nhất.
    Thí dụ như trí thức nửa mùa lũ lượt đi nghe hòa nhạc trong nhạc viện. Đương nhiên là họ đặc biệt thèm khát được có mặt tại những buổi biểu diễn được mọi người chờ đợi – hiện diện tại những buổi biểu diễn của những diễn viên ngoại quốc hay nhạc sĩ tài danh. Nhưng sẽ thật thú vị nếu quan sát thái độ của đám trí thức nửa mùa này suốt buổi hòa nhạc đó. Họ cảm thấy cực kỳ chán nản! Đâu đâu cũng chỉ thấy những bộ mặt vô cảm, những ánh mắt đảo khắp khán phòng. Nhưng sau khi kết thúc thì đám đó lại nhiệt liệt vỗ tay, tỏ vẻ ngưỡng mộ, tôn kính diễn viên (nhạc sĩ). Có thể thấy bức tranh tương tự như thế trong một buổi triển lãm nghệ thuật có uy tín nào đó. Xếp hàng thì chen nhau, trong phòng thì uể oải, còn khi kết thúc thì lại tỏ ra ngưỡng mộ.

    Xin đưa ra một phác thảo nữa – về khát vọng (giả tạo) của giới trí thức nửa mùa trong việc tìm hiểu hiện tình, nhu cầu và đặc điểm của đất nước. Nói rằng đấy là việc quan trọng thì trí thức nửa mùa lúc nào cũng sẵn sàng. Nhưng làm việc một cách nghiêm túc thì lại là chuyện hoàn toàn khác. Thí dụ: cuối những năm 1980 có quyết định in toàn tập tác phẩm của V. Kliuchevski[1] và S. Solovjov[2], hai nhà sử học lớn nhất của nước Nga trước cách mạng. Lạy Chúa tôi, tầng lớp trí thức nửa mùa đã bị kích động đến mức nào! Họ đã tỏ ra hân hoan, tuy có hơi sớm, đối với các tác giả, đặc biệt là đối với Kliuchevski, đến mức nào. Vì họ đã nghe nói ở đâu đó: đây là một nhà tư tưởng đặc biệt, một người hiểu rõ quá khứ của nước Nga. Thế là giới trí thức nửa mùa tìm mọi cách đăng kí mua. Mua bán trao tay, còn bọn đầu cơ thì hét giá đến 300 thậm chí 400 rub, một khoản tiền lớn thời đó. Mua được – rồi sao? Trong hàng chục người đã đăng kí mua (tất cả đều là những trí thức cả về học vấn lẫn địa vị, một số còn là những nhà hoạt động văn hóa nữa) tôi chưa thấy một người nào đọc! Chưa một người nào! Mua về, đặt lên chỗ dễ thấy nhất – cho mọi người nhìn – thế là hết. Họ hết sức tự hào vì đã mua được những trước tác vĩ đại như thế. Lịch sử thì họ đã và vẫn đọc, nhưng không phải là thứ “nặng” như thế, chỉ là những cuốn sách phổ thông mà thôi.

    Độc giả có thể thắc mắc: đấy có phải là một giai tầng không? Có phải là một lực lượng chính trị, lực lượng xã hội không? Có thể đấy chỉ đơn giản là những người có học vấn trung bình mà ở đâu, đất nước nào, xã hội nào chả có? Đúng thế, ở đâu cũng có. Nhưng ở nước ta từ nửa sau thế kỷ XX họ đã tạo thành một lực lượng chính trị, lực lượng xã hội. Họ không còn là những cá nhân trôi nổi trong xã hội nữa. Tại sao?

    Thứ nhất, họ đông đảo đến mức đáng kinh ngạc. Lý do, theo tôi, là sự vội vã trong việc đào tạo hàng loạt, cụ thể là việc phát triển một cách ồ ạt, mang tính bề nổi các trường đại học – chuyên tu, tại chức, v.v…; mà ngay chính quy hóa ra cũng “chưa đủ tầm”. Rất nhiều người có bằng đại học, mà cùng với bằng cấp là quyền được tự coi là trí thức. Nhưng trên thực tế đấy chỉ là “nửa vời”. Thứ hai, điều này cũng không kém phần quan trọng, như đã nói bên trên, giai tầng này có thói kiêu ngạo chính trị: “Nếu có quyền chúng tôi có thể làm được hết”. Nguyên nhân của thái độ như thế không phải là điều bí mật. Một mặt, đấy là thái độ bất bình với môi trường sống đang ngày càng gia tăng trong toàn xã hội. Mặt khác, đấy là nhận thức cho rằng mình (do đông người và những quan niệm hời hợt) là một lực lượng mà “không có việc gì là khó” cả. Chỉ có những kẻ có suy nghĩ hời hợt mới có thái độ tự tin như thế vì họ quan niệm tất cả mọi thứ trên đời đều đơn giản. Kết quả là đám đông trí thức nửa mùa càng ngày càng trở thành giai tầng sẵn sàng tham gia hoạt động chính trị. Mà lại dựa vào cương lĩnh về những cuộc cải tổ và cải cách nhanh chóng nhất. Các giai tầng khác cũng tỏ ra bất mãn với nhiều vấn đề, nhưng không có thái độ kiêu ngạo chính trị như thế. Họ không hoạt động, họ chỉ bực bội và phàn nàn mà thôi. (Nếu ai còn nhớ thì đấy là bức tranh điển hình hồi những năm 1970-1980). Trí thức nửa mùa càng ngày càng khao khát lao vào trận chiến.

    Khát khao hành động thì đã có, nhưng tai hoạ là ở chỗ họ chưa sẵn sàng hành động và hoàn toàn không biết cần phải làm gì. Tình hình càng trầm trọng thêm bởi niềm tin mù quáng của giới trí thức rằng họ biết rõ cần phải “làm gì”, kể cả với hoàn cảnh, chỉ cần tạo điều kiện cho họ là mọi việc sẽ xong ngay tắp lự. Do đó mà trong khoảng giao thời những năm 1980-1990 trong tâm trạng xã hội, bên cạnh tâm lý bất mãn chung đối với cuộc sống lại xuất hiện một xu hướng tự tin rất mạnh mẽ rằng dường như mọi việc đều cực kỳ đơn giản, có thể chấn chỉnh và sửa chữa một cách dễ dàng. Niềm tin này chính là dấu hiệu để phân biệt trí thức nửa mùa và cũng là ngọn cờ chiến đấu của họ.

    Giới trí thức chân chính – những người lao động trí óc nghiêm túc, có nhiều kiến thức và có thói quen suy nghĩ độc lập – hoàn toàn xa lạ với thái độ ngang tàng như thế đối với các vấn đề phức tạp và quan trọng. Nhận thức được rằng mọi việc đều phức tạp và thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng là việc khó khăn, giới trí thức cảm thấy lo lắng và lúng túng. Nhưng trí thức nửa mùa thì, xin nhắc lại, lao vào chiến đấu.

    Giai đoạn “cải tổ” ban đầu đã trở thành chất xúc tác cho các hoạt động chính trị và cải cách của giới trí thức nửa mùa. Đất nước đang cần những thay đổi to lớn và nhanh chóng, đặc biệt là về kinh tế. M. Gorbachev, sau khi nhận thức được rằng những biện pháp thận trọng ban đầu sẽ không đem lại hiệu quả, buộc phải hướng về giới trí thức nửa mùa, phải dùng những kẻ đang khát khao những thay đổi như thế, mà cụ thể là những người làm việc trong lĩnh vực khoa học kinh tế và khoa học xã hội. Tôi không muốn nói rằng chỉ có những trí thức nửa mùa đóng vai trò cố vấn và “nói leo”, nhưng phần lớn là những người như thế. Nhưng Gorbachev đã nhanh chóng bị rát mặt vì những lời cố vấn của họ. Là một người nhanh trí, ông lập tức nhận ra rằng những lời gợi ý và khuyến nghị của họ thường chỉ có tính cách nghiệp dư và chẳng mang lại kết quả gì, đằng sau cái vẻ khoa học và hiểu biết mang tính trang trí của các cố vấn thì tất cả những khuyến nghị đó chẳng có giá trị gì hết.

    Xin ghi lại một hồi ức về thời đó. Lúc đó Gorbachev rất tin tưởng vào những khuyến nghị về kinh tế của Viện Kinh tế và Giám đốc Viện là viện sĩ L. Abalkin – một chuyên gia rất sâu sắc và có uy tín. Một lần Albalkin đến Viện Kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế và cay đắng nói rằng Tổng bí thư giao cho ông lập tại Viện một nhóm các nhà kinh tế gia tài năng để tạo thành “túi khôn” cho cải tổ, nhưng sau khi đã lùng khắp cả nước ông vẫn không tìm được ai: “Tất cả đều là các cán bộ tuyên truyền và những người tố cáo chủ nghĩa đế quốc, còn công việc thì chẳng có ai hiểu gì”. Dĩ nhiên đấy là câu chuyện về giới trí thức nửa mùa trong lĩnh vực kinh tế học.

    Gorbachev đã quay lưng lại với những trí thức bất tài. Kinh nghiệm đã thu thập được là lý do ông có thái độ coi thường đối với tác phẩm của nhóm G. Iavlinski và kết quả của nó, tức là kế hoạch “năm trăm ngày”, liên quan đến giai đoạn cải tổ kinh tế ban đầu. Lúc đó Gorbachev đã nhận thức được rằng ông đang có quan hệ với những người như thế nào. Nhưng trong lĩnh vực những cuộc cải cách kinh tế đã chín muồi ông chẳng còn biết đi theo hướng nào nữa. Ông kiên quyết từ bỏ các cố vấn thận trọng trong các cơ cấu quản lý, theo ông thì đấy là những kẻ chẳng được tích sự gì. Các trí thức hóa ra cũng là những người bất lực nốt. Trong nhiệm kỳ thứ hai ông quyết định dành nhiều công sức hơn cho lĩnh vực đối ngoại, cố gắng dùng thành tích trong lĩnh vực này nhằm trám lại những lỗ hổng uy tín quá lớn trong lĩnh vực kinh tế.

    Tâm trạng của giới trí thức nửa vời – không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn rộng hơn – trong giai đoạn này thì như thế nào? Có thể họ đã ngộ ra rằng chính sách cải cách không phải là một việc đơn giản? Rằng họ không có kiến thức về hiện tình của đất nước? Rằng cần phải suy nghĩ một một cách nghiêm túc và sâu sắc, phải tìm kiếm, biến mình thành những người nghiên cứu xã hội? Không có gì như thế cả. Giới trí thức nửa mùa đã không còn là nửa mùa nếu họ có khả năng làm như thế. Tự phân tích không phải công việc phù hợp với họ. Họ có những phản ứng hoàn toàn khác – đơn giản, cứng nhắc và rất kiên quyết nữa. Đấy cũng là đặc trưng của hệ thống tư duy của cả giai tầng này. Trí thức nửa mùa bắt đầu thuyết phục dư luận xã hội rằng tất cả là do lỗi của Gorbachev, rằng những lời cố vấn mà họ đưa ra hoàn toàn chẳng có vai trò gì. Và cả giai tầng này lập tức quay lưng lại với Gorbachev. Sau đó, cũng lại vẫn theo tinh thần của trí thức nửa mùa; họ lao ngay lên một nấc thang cấp tiến mới. Từ quan niệm đơn giản về cải cách và sự kiên quyết của mình, họ đòi: cần phải đập tan “toàn bộ hệ thống”. Chỉ có thế mới ăn thua. Họ lại cảm thấy mọi thứ cực kỳ đơn giản – chỉ cần kiên quyết hơn, “phá đến tận gốc” là xong.

    Đúng lúc đó trên sân khấu chính trị xuất hiện thêm một người còn đóng vai trò xúc tác mạnh mẽ hơn đối với năng lực chính trị và cải cách của giới trí thức nửa mùa, đấy là B. Yelsin. Sau những lời khẩn cầu về việc “minh oan về mặt chính trị” bất thành tại Hội nghị Đảng lần thứ XIX (1988), ông ta, một người đã hoàn toàn li khai với Đảng và hệ thống cũ, cần những cuộc cải cách theo xu hướng đập tan tất cả ngay lập tức. Tôi nghĩ đấy là do không chỉ vì ông ta tin rằng hệ thống cũ và Đảng không có khả năng giải quyết được những vấn đề của đất nước (những vấn đề quả là to lớn và đã tích tụ trong hàng chục năm hoạt động của hệ thống và Đảng) mà còn vì sau khi đoạn tuyệt, hệ thống và Đảng đã trở thành kẻ thù nguy hiểm của ông ta. Vì những tổ chức đó có thể phản kích, muốn cho Yeltsin sống sót về mặt chính trị thì cả Đảng lẫn hệ thống đều phải bị đập tan.

    Ai có thể soạn thảo và thực hiện một kế hoạch như thế? Chỉ có một lực lượng duy nhất, đấy là giới trí thức nửa mùa, sau giai đoạn kết hợp ngắn ngủi với Gorbachev, đã trở thành cấp tiến hơn. Việc phá huỷ toàn bộ đất nước hoàn toàn phù hợp với trình độ tri thức và quan điểm của họ. Họ không nghi ngờ gì – cũng như khi cố vấn cho Gorbachev – rằng mọi việc sẽ kết thúc một cách tốt đẹp nhất. Tầm hiểu biết không cho phép họ nghi ngờ.

    Xin nhớ lại không khí cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990. Trí thức nửa mùa giành được quyền lực một cách cực kỳ nhanh chóng, họ nắm trong tay nhiều toà báo, nhiều kênh truyền hình, đài phát thanh. Họ – đấy là nói về Moskva – thường xuyên tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình, đưa một loạt diễn giả bốc lửa và cuối cùng đã làm chủ được công luận. Không khí thật là phấn khởi và tự tin: nếu chúng ta đập tan được “chế độ toàn trị” thì trong cái mũ này sẽ có những gì? Chỉ cần thực hiện xong những cuộc cải cách mang tính khai phóng – trong kinh tế và chính trị – thì sẽ có gấp đôi, đúng không? Chỉ có sự ngu dốt một cách cùng cực và con đẻ của nó là sự đơn giản hóa tối đa mới có thể dẫn đến thái độ lạc quan vô căn cứ như thế mà thôi. Mà đây chính là dấu hiệu cha truyền con nối của trí thức nửa mùa. Họ tỏ ra hân hoan và đưa ra những lời tiên tri, họ cố gắng làm cho người khác cũng nhiễm những hy vọng thiếu căn cứ, cứ như là ngay ngày mai chúng ta sẽ sống như ở Mĩ hay ít nhất thì cũng như Thụy Điển vậy. Chính họ chứ không phải tầng lớp hay nhóm xã hội nào khác. Còn đa số dân chúng thì tỏ ra thận trọng, lo lắng.
    Dưới trào Yeltsin (đặc biệt là giai đoạn đầu) trí thức nửa mùa phát triển hết cỡ. Có một quy luật với rất ít ngoại lệ: ý định cải cách càng vĩ đại thì càng có nhiều người tự tin và ít hiểu biết sẵn sàng thực hiện nó. Công việc như thế thường làm cho những người nghiêm túc, có suy nghĩ tỏ ra thận trọng, chứ không hấp dẫn được họ. Thậm chí đơn giản là làm cho họ sợ nữa.

    Đấy chính là điều đã xảy ra ở nước Nga vào đầu những năm 1990. Cái nhóm tiến hành công việc cải cách ấy gồm những ai? Cho đến nay, người ta đã viết hàng núi sách khác nhau đủ loại về nhóm người này. Nhưng dù sao giữa hàng loạt đặc điểm được nêu ra vẫn có một sự tương đồng. Đấy chính là những đặc điểm của giới trí thức nửa mùa. Thứ nhất, tất cả mọi người đều ghi nhận sự tự tin vô tiền khoáng hậu của nhóm những nhà cải cách-cấp tiến vào sức mạnh và khả năng của mình. Nói chung, dĩ nhiên đấy không phải là một phẩm chất xấu, nhưng khi chủ nhân của nó bắt tay cải tạo một đất nước cực kỳ to lớn và cực kỳ phức tạp thì nó đã trở thành chỉ dấu của sự kém hiểu biết, thiếu kinh nghiệm, thiếu suy nghĩ, đầy nguy hiểm và thật đáng sợ. Thứ hai, chả lẽ sự tự tin mà vốn hiểu biết lại cực kỳ nghèo nàn không phải là đặc trưng thường gặp ở giới trí thức nửa mùa hay sao? Thực ra đây là những thanh niên, những người mới hôm qua còn ngồi trên ghế giảng đường đại học, kinh nghiệm sống, chưa nói kiến thức chuyên môn, chẳng có bao nhiêu. Thứ ba, tốc độ và sự quyết liệt của các cuộc cải cách cũng chứng tỏ rằng đấy là những người kém hiểu biết, nếu hiểu biết họ đã không làm như thế.

    Đúng là trong số những nhà cải cách cấp tiến có những người “không còn trẻ”. Nhưng thật ra không nhiều. Sẽ lầm to khi cho rằng trí thức nửa vời không tìm cách luồn lách để trở thành tiến sĩ, giáo sư, viện sĩ, v.v… Tác giả những dòng này, người đã làm trong lĩnh vực khoa học xã hội trong một thời gian dài, rất thường được nhìn thấy “những kẻ hay chữ lỏng” tự tin với các học hàm học vị cao nhất. Mà tất cả những người có dính líu đến lĩnh vực này đều nhìn thấy – chỗ nào chả có mặt họ.

    Trong quan hệ của mình với đám người này, dĩ nhiên là Yeltsin đã lặp lại đúng con đường của Gorbachev. Ông đã nhanh chóng nhận ra bản chất của những nhà cải cách qúa tự tin. Ông cũng quay lưng với họ sau khi giải tán chính phủ Gaidar và thay bằng chính phủ của Trenomyrdyn. Không thể không nhớ lại làn sóng giận dữ và bất bình nhân sự kiện này trong phe hữu, nơi tập trung nhóm trí thức nửa mùa quyết liệt nhất. Trong hàng trăm bài báo, bài bình luận trên truyền hình và những bài phát biểu khác, những người cánh hữu kêu ầm lên về cái sự gần như là phản bội của Yeltsin đối với sự nghiệp cải cách. Tác giả những dòng này hoàn toàn không phải là người ủng hộ và sùng bái Yeltin, ngược lại là khác. Nhưng tôi không tán thành những lời kết án được những người cánh hữu coi là chuẩn mực, coi là có giá trị như một tiền đề lịch sử.
    Sau khi thấy kết quả đầy tai hoạ của “liệu pháp sốc”, Yeltsin còn biết làm gì ngoài việc quay lưng lại với những nhà cải cách-cấp tiến? Bởi vì khởi kỳ thủy các nhà cải cách này đã vẽ ra viễn tượng cực kỳ xán lạn. Sau khi khởi động cuộc cải cách, Gaidar dự đoán rằng sẽ có một giai đoạn suy giảm sản xuất, giá sẽ tăng không đáng kể – từ 70 đến 200% – còn sau đó tình hình sẽ nhanh chóng ổn định và kinh tế sẽ phát triển. Kết quả? Tất cả những gì có thể đổ vỡ đều đã đổ vỡ hết. Giá cả gia tăng không phải từng đó mà là hàng ngàn lần! Sản xuất lâm vào tình trạng phá sản. Thất nghiệp cao khủng khiếp. Cả Chiến tranh thế giới I lẫn Chiến tranh thế giới II đều không đưa được nước Nga vào tình trạng khủng hoảng như những cuộc cải cách đó! Cần phải đặt câu hỏi: chính khách nào còn tin vào những kẻ đã gây ra thảm hoạ như thế? Trên thế giới này không có một kẻ nào điên đến mức như vậy.

    Xin nói thêm vài lời nữa. Tác giả vẫn còn nhớ bài phát biểu đầy tức giận của Gaidar trên vô tuyến sau khi ông ta bị Yeltsin bãi nhiệm. Lúc đó ông ta đã cay đắng nhận xét rằng trong tình hình tuyệt vọng người ta mới cần đến ông, còn khi đã ổn định thì cho ra rìa (tôi nhớ chính xác ý của bài phát biểu là như thế). Đấy là gì: không muốn nhìn thẳng vào sự thật? Cố gắng cứu vớt uy tín? Hay là mánh khoé nữa của một chính khách đang tự cứu mình?

    Có thể. Nhưng tôi cho rằng, đặc biệt là dưới ánh sáng của đề tài đang được thảo luận, ở đây có một cái gì đó hoàn toàn khác và nghiêm túc hơn nhiều. Đây lại là thêm một biểu hiện nữa của sự vô năng cố hữu của giới trí thức nửa mùa trong việc tự phân tích với tinh thần phê phán. Sự vô năng là do kiến thức nửa vời và góc nhìn hạn hẹp. Như ta thấy, Gaidar đã thực sự tin (và hiện vẫn còn tin) rằng ông ta và những người cùng hội cùng thuyền với mình đã làm đúng. Còn kết quả không được như ý là do bị người ta cản trở. Trong đó có cả vị Tổng thống “đã quay lưng” lại với họ. Một sự kiện đáng ghi nhận: sau đó một loạt các nhà cải cách-cấp tiến đã hứa với công luận rằng sẽ phân tích sai lầm của chính mình. Cố gắng đầy tai tiếng trong việc xuất bản một tác phẩm viết về các cuộc cải cách, năm vị “sư phụ cải cách” nổi danh nhất đứng đầu là Trubais đã nhận được một khoản nhuận bút cao chưa từng thấy từ một đại gia, cuốn sách có trách nhiệm rọi “luồng ánh sáng” của tư duy phê phán như đã hứa hẹn vào những gì họ đã làm.

    Nhưng không thấy “luồng ánh sáng” nào cả. Vì sao? Vì biết bao nhiêu lời chỉ trích đã được nói lên từ tất cả mọi phía rồi! Dù là chỉ để tách gạo ra khỏi trấu (theo như những nhà cải cách-cấp tiến quan niệm) thì đáng ra người ta phải làm cái việc tự phân tích và xem xét những sai lầm từ lâu rồi. Tất cả các lực lượng chính trị đều sử dụng những biện pháp như thế.

    Tác giả cho rằng mình biết cách giải thích điều bí ẩn này. Vấn đề hoàn toàn có thể là các nhà cải cách-cấp tiến thực sự không nhận ra rằng họ đã làm không đúng. Với kiểu người của họ, với sự hỗn hợp giữa thái độ tự tin và thiếu kiến thức như thế, đơn giản là họ không thể nhận ra điều đó. Còn khi hứa xem xét những sai lầm của chính mình là họ cố tình đánh lừa, cố tình tạo ra hình ảnh một lực lượng chính trị nghiêm túc và có trách nhiệm, có khả năng tư duy lại quá khứ và như vậy là nhằm nâng cao hiệu quả chính sách của mình trong tương lai.

    Tác giả nhắm đến ba mục tiêu khi viết bài báo này. Thứ nhất, mục đích chung nhất là góp phần làm sáng tỏ sự kiện là phân bố lực lượng chính trị-xã hội mà chúng ta đã quen trong hàng chục năm, trong giai đoạn tiếp nối đầy tai ương giữa những năm 1980-1990 đã và vẫn không hoàn toàn là cách phân bố mà theo thói quen ta từng tưởng tượng. Tầng lớp trí thức mà ta tưởng là một tác nhân mạnh mẽ cho những biến đổi xã hội trên thực tế đã không phải là như thế. Nhân danh nó, giới trí thức nửa mùa, giống trí thức thực sự ở cái mẽ bên ngoài, đã nhảy lên sân khấu. Trên thực tế, đây là lực lượng cực kỳ thiển cận về mặt chính trị, họ sẵn sàng ra tay không phải vì hiểu được thực tế mà là do tự đánh giá mình quá cao.

    Nhân chuyện này tôi muốn quay lại với định nghĩa về giới trí thức. Người ta nói nhiều đến định nghĩa này đúng vào lúc giới trí thức nửa mùa bắt đầu ngoi lên. Giới trí thức nửa mùa đã đưa cuộc thảo luận đến kết luận rằng trí thức là người thiết tha với quyền lợi xã hội, chứ không phải quyền lợi cá nhân hạn hẹp, và tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh xã hội. Cách nhấn giọng như thế là có thể hiểu được. Nó ngầm kêu gọi ủng hộ giới trí thức nửa mùa vùng lên chống lại hệ thống, tiến hành đập tan hệ thống. Nhưng xin suy nghĩ thêm về định nghĩa này. “Thiết tha với quyền lợi xã hội” có phải là người trí thức không? Thế thì Hitler cũng được coi là người trí thức: hắn chả “thiết tha” đấy ư! Không, “thiết tha” không thể là tiêu chí được, tiêu chí phải là phẩm chất của cách tiếp cận với các vấn đề xã hội. Kiểu người, phương pháp tư duy, tính nghiêm túc, chiều sâu, trách nhiệm trước các hành động (nó còn là tính đạo đức nữa), kiến thức rộng do lao động miệt mài mà có. Và có thể không phải là vô tình mà người trí thức, tầng lớp trí thức lúc đó đã không được giải thích theo cách đó. Tác giả hoàn toàn không nhớ một trường hợp nào như thế. Nếu có thì giới trí thức nửa mùa đã lập tức bị đẩy ra khỏi tầng lớp trí thức, một giai tầng có uy tín của xã hội, ngay từ lúc đó.

    Trí thức nửa mùa mang danh trí thức là một hiện tượng cực kỳ nguy hiểm, chứa đầy tai ương. Khi họ làm những công việc bình thường thì tai hoạ không phải là lớn (mặc dù dĩ nhiên là vẫn có: kém hiểu biết bao giờ cũng kéo theo hậu quả tiêu cực). Nhưng khi trí thức nửa mùa bắt tay vào làm việc lớn (đúng hơn là kiên quyết giành lấy vì thái độ tự tin của mình) thì tai hoạ là không thể tránh khỏi.

    Mục đích thứ hai – góp phần, trong chừng mực có thể (tác giả không có chút ảo tưởng nào về khả năng này), để giới trí thức nửa mùa không thể tạo ra được ảnh hưởng trong lĩnh vực chính trị như trước đây được nữa. Mười năm vừa qua đã làm giới này rúng động một cách mãnh liệt nhất, nó đã yếu đi nhiều, đa phần đã “tan đàn sẻ nghé”, chuyển sang những mối bận tâm khác và sử dụng những khả năng khác. Nhưng không được đánh giá thấp “khả năng quay về” đỉnh cao quyền lực chính trị của giới trí thức nửa mùa. Dù chỉ là vì một nhóm, sau khi đã leo lên hồi cuối những năm 1980 – đầu những năm 1990 đang tìm mọi cách bám trụ, đã trở thành xu hướng hữu và cực hữu. Dĩ nhiên là trí thức nửa mùa đang và sẽ còn cố gắng thôi miên xã hội rằng họ biết cách giải quyết tất cả mọi vấn đề. Họ đang nói và còn tiếp tục nói một cách tự tin và xấc xược (hơn nữa, xin nhắc lại, chính họ – đúng hơn là nhiều người trong số họ – tin vào khả năng và sự đúng đắn của mình). Chỉ cần một phần dân chúng tin họ thì đấy sẽ là bi kịch không thể nào sửa chữa được. Nhưng nếu cuối cùng điều đó vẫn xảy ra thì rõ ràng số kiếp của chúng ta đáng phải như thế. Một xã hội, sau khi đã trải qua những thử thách khốc liệt nhất, không rút ra được bài học thì đừng hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn.

    Mục đích thứ ba – bảo vệ giới trí thức chân chính. Giúp rửa vết nhục trách nhiệm về những điều đã xảy ra với Tổ quốc ta trong quá khứ. Tầng lớp này, đáng tiếc còn quá ít, nhất là trên nền của giới trí thức nửa mùa, đã và tiếp tục làm những công việc quan trọng sống còn của đất nước. Bất cứ ở đâu, khi đem áp dụng kiến thức, sự nhẫn nại và cố gắng, họ cũng đều đạt đến nhận thức khách quan, đến nguyên nhân thật sự của tất cả các tiến trình và hiện tượng. Thật đáng tiếc là trong sự nghiệp cải cách, giới trí thức chân chính của chúng ta đã gần như bị giới trí thức nửa mùa say máu đỏ đen và xấc láo đẩy ra ngoài. Rất muốn tin rằng giới trí thức chân chính một lần nữa sẽ quay trở về với vai trò lịch sử của mình./.

    Nguồn: Tư tưởng tự do thế kỷ XXI, số 10, năm 2002, trang 27.
    Đã đăng trong tập tiểu luận Về trí thức Nga, Nhà xuất bản trí thức, Hà Nội, 2009.
    © Phạm Nguyên Trường (Bản tiếng Việt)
    _______________
    Chú thích:
    [1] Kliuchevski V. O. (1841-1911), nhà sử học nổi tiếng người Nga.
    [2] Solovjov S. M (1820-1879), nhà sử học người Nga, Hiệu trưởng trường Đại học Tổng hợp Moskva từ năm 1871 đến năm 1877.

    Oleshuk Iu. F.

    30/01/2012 at 14:12

    • Em thích bài này quá!
      Bác Phạm Nguyên Trường có bài dịch “Khủng hoảng trí tuệ và sứ mệnh tầng lớp trí thức” cũng viết về đề tài này và dường như rất hợp với những tranh luận gần đây

      Doan Ngoc Phung

      30/01/2012 at 15:45

  4. ‘Lãnh đạo’ và ‘trí thức’ là hai vị trí rất hấp dẫn đối với người xứ mình. Tranh luận ở xứ mình đang nặng về áp đặt ý kiến (định kiến), nhẹ về cởi mở/cọ xát ý tưởng để phát triển rộng hơn sâu hơn để tìm được cái hay hơn, đúng hơn. Vẫn biết rằng không có gì là tuyệt đối đúng thì định kiến lại càng có thể sai. Nhiều người cố để có được chỗ ngồi ‘lãnh đạo’ và áo ‘trí thức’ để nghe lời sáo rỗng và phổ biến định kiến của mình, quên mất nhiệm vụ của các chức danh này là phải đóng góp giá trị đích thực nâng cao tinh thần, trí tuệ và vật chất bền vững cho cộng đồng. Nhưng các giá trị đích thực lại không dễ đến mà phải khổ công tìm kiếm. Vì vậy thừa nhận sai lầm và nói lời xin lỗi ở xứ ta là rất khó khăn. Dẹp tranh luận đi (kể cả dùng thủ đoạn), tiếp tục nói làm sáo rỗng, là phương án dễ được lựa chọn nhất.
    Kính chúc GS. Châu luôn mạnh khỏe, đóng góp đều đặn cho việc giảm thói quen xấu ở xứ ta.

    Tuyen

    30/01/2012 at 15:17

  5. “Sân bay Phú Bài cam tuyền. Hoàng Phủ vẫy tay. Cuộc chia tay nào cũng bịn rịn. Tôi chỉ kịp nói với ông: Sông Hương giống sông Nil ở Ai Cập, cùng nhịp chảy chậm, một bên lăng tẩm đền đài và một bên khách sạn, cùng ru giấc ngủ những vì vua… Tôi chỉ kịp nói ngần ấy, và chia tay.”
    Lưng Trần – Trần Vũ

    They killed and they were killed. They met and will forgive quietly and slowly. It takes time to heal their pain. And someday they will fall in love over and over again. We are one.

    HaiAu

    30/01/2012 at 16:01

  6. Cám ơn GS. Ngô Bảo Châu rất nhiều về những ý kiến liên quan đến việc phát triển xã hội và con người Việt Nam. Nội cái chuyện bỏ thời gian và công sức để chia sẻ trên một blog “bình dân” như thế này đã đủ khẳng định sự tận tâm và tấm lòng của GS đối với quê hương.

    Hình ảnh, thành tích (với đúng nghĩa của từ này) và những trao đổi của GS đã không chỉ lên tinh thần cho những anh chị em trong ngành Toán học mà còn cả ở những lĩnh vực/ ngành nghề khác đang phát triển (và đang loay hoay) tại Việt Nam.

    Chúc GS luôn mạnh khỏe và hạnh phúc.

    Ngô Minh Uy
    (một người làm việc trong ngành tâm lý học)

    Ngô Minh Uy

    31/01/2012 at 01:30

  7. Từ khi đọc trên Tuổi trẻ, rồi đọc bình luận trên các blog, em vẫn quý trọng cách nhìn nhận và quan điểm của GS Châu. Cho dù bài phỏng vấn bị cắt nhưng hàm ý trong phần còn lại không phải là khó hiểu đối với một người có tư duy ở mức trung bình như em và em hoàn toàn không hiểu được tại sao nó lại bị suy diễn một cách quá thể (ở đây em chỉ không hiểu về việc tại sao lại bị suy diễn, còn việc trí thức phải làm/ cần làm/ vai trò được nêu ra sau suy diển thì em hiểu). Sau vụ ầm ĩ liên quan, em đã bỏ đi thói quen đọc một vài blog quen.

    Cá nhân em, mức am hiểu xã hội, chính trị chưa nhiều để có thể đưa ra nhận định cá nhân về viện toán và ngân sách 650 tỷ từ phía chính phủ nên tiếp tục ngồi xó nhà theo dõi các bình luận cũng như những hoạt động tiếp theo của viện. Chỉ có một điều, em tin, rất tin đó là việc GS Châu bỏ tâm bỏ sức ra cho viện toán hoàn toàn vì những mục tiêu liên quan đến chuyên môn và sự gắn kết với mảnh đất này.

    vinca81

    31/01/2012 at 02:14

  8. Gs Châu ko nên tham gia tranh luận khái niệm “Trí thức” làm gì ! Vì tôi thấy GS bận đến nỗi ko kịp nghĩ tới thất vọng hay lạc quan và vìsự đổ vỡ khoa học xã hội ở VN là rõ ràng nên bất cứ chuẩn mực nào đưa ra thì cũng tranh luận thôi ! Bây giờ thế nào là đạo đức, chân lý, kể cả đúng sai . . .nêu đưa ra cũng tranh luận thôi ! Thêm nưa nó ko là thứ GS sành điệu dù lối tư duy trong sáng và gần với chân lý của GS là thực tế !

    minh thiện

    31/01/2012 at 03:52

  9. Rat quy va tin o Chau,

    phucnguyen

    31/01/2012 at 03:58

  10. @vinca 81 “việc GS Châu bỏ tâm bỏ sức ra cho viện toán hoàn toàn vì những mục tiêu liên quan đến chuyên môn và sự gắn kết với mảnh đất này”

    Tôi và nhiều người khác cũng rất tin như vậy! Tôi cũng nghĩ rằng trong lúc xã hội khủng hoảng, (trí thức, giá trị) thật giả lẫn lộn, thì chúng ta phải để cho tất cả mọi người được “mở miệng”, “nói những gì mình nghĩ”, lắng nghe và xét đoán bằng năng lực của chính mình, và chọn giao trách nhiệm cho những người xứng đáng cho chúng ta tin tưởng.

    lan huong

    31/01/2012 at 09:45

  11. XUÂN NHÂM THÌN! KÍNH CHÚC GIÁO SƯ VÀ GIA ĐÌNH:
    THÂN TÂM AN LẠC, VẠN SỰ TỐT LÀNH.

    Tự tôi cảm thấy giáo sư dùng từ tiếng việt thật uyên bác như trình độ về toán mà giáo sư đã thể hiện (tôi đã đọc “Về nỗi sợ hãi ” của GS). Tôi có đọc một số nhận xét về bài viết của giáo sư nhưng thấy phần nhiều không hiểu giáo sư, một số ít hiểu một phần. Thật khó dùng lời để bình luận hàm ý giáo sư viết . Xin giáo sư vui lòng chia sẻ cách đọc sách để có kiến thức .Rất cảm ơn nếu được hồi đáp. Kính chào giáo sư.

    Đại Kiệt

    31/01/2012 at 09:48

  12. Một bài viết thấu tình ,đạt lý của giáo sư.Một cái nhìn mà tôi nghĩ ít người hiểu vì đơn giản nó của một người Việt có một nền kiến thức Pháp học mà ai không trải qua nó lại được hưởng cái tư duy Á học ( đang gặp phải một thất bại tràn trề trước thực tiễn khốn khó của một DÂN TỘC VIỆT mà cái gọi là tầng lớp tinh hoa trí tuệ này chả có đóng góp gì ngoài việc cúi đầu “phục vụ”) thì khó mà vượt qua chính mình để thừa nhận.Tôi cảm nhận nhiều người tìm được lối thoát cho những thất bại của CẢ CUỘC ĐỜI họ trong việc xả cảng “phản biện’ trong một vấn đề chả có gì mà to chuyện.Mong giáo sư không đến nỗi phải sốc mà bỏ cuộc chơi blog đầy thú vị của mình.Luôn muốn lắng nghe tiếng nói từ trái tim của một nhà khoa học đã trải qua hai môi trường học thuật bậc nhất thế giới là Hoa Kỳ và Pháp và tôi luôn tin là NÓ RẤT CẦN THIẾT cho lớp trẻ sinh viên học sinh trí thức.Chúc giáo sư luôn giữ cho mình một đầu óc minh mẫn với một trái tim luôn TRẺ,KHỎE,LẠC QUAN trước RẤT NHIỀU những THỬ THÁCH đang chờ giáo sư phía trước

    anhtusg

    31/01/2012 at 12:19

  13. Mình có một còm trên anhbasam về vụ này xin được nêu ra ở đây ,nếu có hiểu sai giáo sư thì cũng mong lượng thứ:
    43.anhtusg đã nói
    24/01/2012 lúc 18:59
    Tôi thấy giáo sư Huệ Chi cũng như phần lớn chúng ta trong quá trình tranh luận đã không vạch đúng cái ngoại diên( tập hợp) của khái niệm trí thức.Phải tách bạch giữa một cá nhân trí thức và trí thức như là một tập hợp những cá nhân.Nếu xem xét trí thức dưới góc độ MỘT CÁ THỂ thì liệu phản biện có phải là một thuộc tính bắt buộc không.Thử hỏi giáo sư Nguyễn Huệ Chi rằng một ông giáo dạy học cần mẫn lo sự nghiệp Huệ Chi 20 năm trước không có phản biện xã hội nào đáng kể có phải là trí thức không ?Hay hôm nay,một anh Huệ Chi phản biện mới là trí thức? Liệu những người cần mẫn lo cho sự nghiệp trồng người như giáo sư Nguyễn Văn Huyên( Cựu Bộ trưởng giáo dục),giáo sư Trần Văn Khê,một chuyên gia suốt đời lo cho sự nghiệp âm nhạc nước nhà có phải là trí thức?Một ông “nông dân ” như giáo sư Võ Tòng Xuân suốt đời lo cho cây lúa đồng sông Cửu long,trăn trở với từng giống lúa,một vụ mùa của người nông dân,không có ý kiến mấy liên quan đến phản biện xã hội liệu có phải là trí thức không? Một Tiến sĩ Lê Bá Khánh Trình( Huy chương vàng Toán quốc tế) cặm cụi với công việc giảng dạy Toán cho học sinh dù năng lực của anh rất giỏi về nghiên cứu nhưng không có điều kiện để phát huy tài năng như giáo sư Châu,cũng không lên tiếng phản biện xã hôi thì liệu có phải là trí thức không?Và rất rất nhiều những ví dụ khác về những người để chúng ta phải suy nghĩ rằng họ thuộc loại trí thức hay không.Chúng ta cần phải công tâm trong việc này. Việc giáo sư Châu nói trí thức là NGƯỜI LAO ĐỘNG TRÍ ÓC chính từ góc độ xem xét các cá thể trí thức chứ không phải nói về “tập hợp” trí thức.Còn cái chúng ta phần lớn đang nói chính là về TẬP HỢP TRÍ THỨC.Đó là một tập hợp những người lao động trí óc và vì nó đại diện cho trí tuệ của một xã hội,luôn nắm bắt nhanh nhạy mọi biến chuyển của xã hội,số đông trong họ tùy theo môi trường làm việc,độ tuổi mà hiểu ra phát hiện ra được nhựng quy luật chiều hướng phát triển của xã hội nên họ sẽ có vai trò dẫn dắt xã hội ,định hướng cho xã hội,tác động đến quần chúng trong đó có các cá thể đang nắm giữ quyền lực để điều chỉnh xã hội theo đúng quy luật vận hành của nó.Tất nhiên trong tập hợp trí thức đó khả năng vai trò trong việc này mỗi người một khác,có người chỉ lo chuyên môn,có người có những đóng góp ý kiến(tạm gọi là phản biên),có những người có những hành động cụ thể vào việc xoay chuyển xã hôi theo chiều hướng mà họ cho là tốt nhất cho cộng đồng.Đó chính là QUYỀN LỰC TRÍ THỨC và nó luôn đứng cao hơn quyền lực của Nhà nước,nó định hướng cho quyền lực nhà nước và khi Nhà nước đi trái lại với lợi ích cộng đồng thì nó có thể tạo sức mạnh thay đổi thể chế cho phù hợp với lợi ích số đông dựa trên sức mạnh của quần chúng nhân dân khi nhân dân nhận chân ra vấn đề dưới sự dẫn dắt của trí thức.Khi đó sẽ xảy ra cách mạng xã hội.
    Kết : Như vậy có thể nói PHẢN BIỆN (đúng ra trí thức có vai trò lớn hơn nhiều cái chữ phản biện như việc nó sẽ thúc đẩy cách mạng xã hội,giúp cho cộng đồng nhân ra chân lý để đưa xã hội tiến lên dù quyền lực Nhà nước có thể cản trở nó) là MỘT THUỘC TÍNH tất yếu của TẬP HỢP TRÍ THỨC nhưng nếu xét dưới góc độ cá thể thì đúng như giáo sư Châu đã nói ở phần đầu- một cá thể lao động trí óc và phản biện KHÔNG PHẢI là một thuộc tính bắt buộc( hãy đọc kỹ phần cuối bài phỏng vấn khi giáo sư đề cập đến trí thức và đó là lúc anh nói về trí thức như môt tập hợp.)
    Việc cá thể trí thức không phản biện hoàn toàn KHÔNG THỂ đánh đồng với trí ngủ-mũ ni che tai (hèn nhát – nhưng phải xem xét cho hoàn cảnh cụ thể vì chữ hèn suy cho cùng trong ai cũng có một chút )hay bộ phận trí nô lấy phục vụ quyền lực làm phương pháp sống và hưởng lợi(như một số người cố tình hoặc vô ý trộn lẫn vào nhau)

    anhtusg

    31/01/2012 at 14:34

  14. Từ “Trí thức” đến Bảng giá tri tinh thần cho dân tộc Việt.
    Khái niệm “trí thức” cùng với nhiều khái niệm khác như: “văn minh”, Đạo đức”, “yêu nước”, “lương thiện”, “tốt xấu”, “Thiện ác”(được GS Châu dùng đến). . .được định nghĩa thế nào là bảng giá trị tinh thần của mỗi dân tộc; nếu định nghĩa này lạc hậu có thể dẫn dân tộc đến diệt vong, nếu định nghĩa này tiến bộ có thể dân dân tộc đên phát triển rực rỡ, nếu nó hỗn loạn như hiện nay thì dẫn đên rối loạn và hành trình của dân tộc thành ko thể đoán định !
    Nếu nhìn thoáng thì người Việt có ba bảng giá trị chủ yếu đã từng hiện diện: Bảng giá trị từ cái nhìn phồn thực tự nhiện, bảng giá trị từ nho giáo phong kiến và gần đây bảng giá trị từ chủ thuyết CNCS ảo tưởng ! Cả ba bảng giá trị nay đã tan rã tơi tả vì các chủ thuyết đến sau, riêng chủ thuyết thư ba thì ta ko rõ vì sao ? He he . .
    Vấn đề của người Việt bây giờ là phải đưa ra một bảng giá trị mới cho dân tộc với một tiền đề rằng nó sẽ bị phủ nhận trong tương lại nhưng sẽ dẫn dắt cho dân tộc qua giai đoạn này – một dân tộc đang đi tìm bản ngã và không gian sinh tồn của mình ! ? Đúng ko ạ ?
    Nếu để ý sẽ thấy ko bảng giá trị nào hoàn toàn biến mất dù hành trình dân tộc đã hàng nghìn năm, tính phồn thực, nho giáo, hay CNCS đang bị méo mó vì tôn vinh giả tạo !
    Xây dựng một bảng giá trị dân tộc mới phù hợp với bản ngã của dân tộc VN và liên tục được cập nhật đó là trách nhiệm của giới tinh hoa Việt ! Rất may có một người có tư duy trong sáng, kết tụ được tinh hoa trí tuệ dân tộc và thế giới một cách vô thức đã phát biểu các định nghĩa gây tranh luận đó là GS Châu !
    Âm thầm, không phát biểu đó là tâm thế của dân tộc Việt – Dù các “Trí thức” ko làm – thì bảng giá trị tinh thần của người Việt vẫn đang hình thành bằng hành đông sống, kiểm soát không gian sinh tồn của mình đang diễn ra ! Hãy thôi tranh luân hỡi các “kẻ sỹ” – ‘trí thức” – Hãy xây dựng một bảng giá trị tinh thần tiềm chứa khả năng bùng phát của người Việt ! – Đó là lời nói yếu ớt xin các vị “kiệt xuất” !
    Dù ko được các quí “trí thức” để ý thì dân tộc Việt vần sẽ tiếp tục hành trình vô định của mình mặc các bảng định giá phổ quát hay ko !
    Xin thông cảm vì là người nghiệp dư lại quá chén !

    minh thiện

    02/02/2012 at 06:30

  15. “…tôi luôn nhớ câu Chế Lan Viên viết trong bài thơ Ai? Tôi?: “Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng, Chỉ một đêm, còn sống có 30, Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó? Tôi! Tôi – người viết những câu thơ cổ võ, Ca tụng người không tiếc mạng mình, trong mọi cuộc xung phong”.
    Tôi nghĩ trong bối cảnh Chế Lan Viên thì câu nói là một lời phản biện đanh thép và tâm huyết (vì chính quyền hô hào sự cổ võ…). Nhưng nếu nhắc lại câu này để áp dụng cho thực trạng hiện nay thì lại thành ra … xu thời (vì chính quyền đang cấm đoán sự cổ võ).

    hunglaconic

    03/02/2012 at 05:41

  16. Tôi đồng ý với định nghĩa Trí thức của GS Châu.
    Mọi nghười nên phân biệt Trí và Dũng.
    Người trí thức có thể không tham gia phản biện các vấn đề chính trị xã hội.
    Tuy nhiên, trong chế độ độc tài thì người trí thức phản biện trở thành người Trí Dũng Song Toàn!

    hunglaconic

    03/02/2012 at 09:24

  17. Ai không hiểu được trí tuệ tự nhiên sinh thì sẽ không biết dùng tri thức để đóng góp một cách thực sự có ích cho xã hội. Điều đáng buồn là nhiều người có học đã tuyệt đối hóa tri thức của con người và thảm họa đã bắt đầu từ đó.

    motnhanhmai

    04/02/2012 at 15:13

  18. Trong số đông chưa hiểu thiện chí của GS, có nhiều người thực ra chỉ vì giận cá chém thớt trong bối cảnh hiện nay, nhất là sau vụ Tiên Lãng. Mình nghĩ lúc này GS nên giữ im lặng và tập trung vào công việc đã lên kế hoạch. Cũng nên quên và đừng nghĩ ai là cừu.

    Còn nhóm lợi ích thì đâu cũng có, chẳng cứ là ở VN. Mình đã từng bị nhiều cấp trên và vài đồng nghiệp cản trở suốt 30 năm (1979-2009) may nhờ học thiền và có bạn quý mới vượt qua.

    Chúc Châu, Thanh và gia đình một năm mới nhiều sức khỏe, thành công và hạnh phúc.

    Mình già rồi, không hiểu đựoc tri thức cao siêu nên cũng không giúp được gì hơn là cho họ thấy không thể độc quyền chân lý, thông qua các hoạt động giáo dục và phổ bién tri thức nhỏ hẹp của mình.

    Chí Công

    Chí Công

    06/02/2012 at 01:16

  19. Chuyện đơn giản thế mà tranh cãi, lý luận cao siêu làm gì?
    Anh giỏi gì thì giỏi, tôi chỉ hỏi anh giúp gì được cho tôi?
    Anh giỏi gì thì giỏi, tôi chỉ hỏi anh giúp gì được những người bất hạnh?
    Anh giỏi gì thì giỏi, tôi chỉ hỏi anh giúp gì được cho những người gặp bất công?
    Anh giúp gì, giúp cho ai thì người đó coi trọng Anh.

    DŨNG

    15/02/2012 at 23:35

  20. you are doing a very good job to connect people for the coming future. you give the youth trust, passion and the path.
    the flag is on your hand now.

    hoàng trần

    20/02/2012 at 15:23

  21. Đọc cả bài xong chỉ nhớ mỗi có câu nói ” Theo tôi phẩm chất quan trọng nhất của người lãnh đạo là tính lương thiện ” .Uh , mà theo tôi nghĩ thì không chỉ người ” lãnh đaọ” mới cần tính lương thiện mà mỗi con người đều phải cần có tính lương thiện trong bất kì hoàn cảnh nào, bất kể người đó là bác sỉ , kĩ sư , thợ vá lốp xe hay nông dân ! Vậy nên mổi người nên tự học lấy cái lương thiện cho chính mình , đừng a dua theo những phường lưu manh , thất đức khac . Địa vị cao , kiến thức rộng , danh tiếng lẩy lừng mà sống lưu manh , dối trá , lừa lọc thì cuối cùng cũng bị người ta khinh khi , phỉ nhổ thôi HÃY TỰ NGUYỆN VỚI LÒNG MÌNH SỐNG LƯƠNG THIỆN.

    Nguyển thành ý

    25/02/2012 at 18:54

  22. Đoạn này anh Châu viết hay quá: “Nói đến chuyện thay đổi chính sách là tôi lại băn khoăn. Hình như cái mà ta làm cho đến nay là thấy cái gì chưa ổn thì ta sửa lại, sắp xếp lại, mà ít để ý đến sự vận động tự nhiên của cuộc sống.”

    Đây là vấn đề rất cơ bản mà nước mình không thay đổi được. Làm gì cũng chỉ ngắn hạn, mang tính đối phó, chữa cháy, không giải quyết tới gốc rễ được, từ giáo dục, lương cán bộ viên chức, giao thông…

    Chúc anh Châu luôn thành công trong cuộc sống và tiếp tục những bài viết giá trị để độc giả được thưởng thức trí tuệ của “Thích Học Toán”.

    Cà Phê Vỉa Hè

    15/03/2012 at 09:02

  23. Tôi nhặt được cái này hay hay nè:

    Gần đây cộng đồng mạng, nhất là cộng đồng blog xôn xao lên về vấn đề xoay quanh hai từ “Trí Thức”. Điển hình là hai ý kiến trái chiều của hai vị giáo sư đáng kính.

    Một của GS Ngô Bảo Châu:

    “… Tôi không đồng ý với việc coi phản biện xã hội như chỉ tiêu để được phong hàm “trí thức”. Đến bao giờ chúng ta mới thôi thi đua để được phong hàm “trí thức”?

    Đối với tôi, trí thức là người lao động trí óc. Cũng như những người lao động khác, anh ta cần được đánh giá trước hết trên kết quả lao động của mình. Theo quan niệm của tôi, giá trị của trí thức là giá trị của sản phẩm mà anh ta làm ra, không liên quan gì đến vai trò phản biện xã hội.

    Mặt khác, cần trân trọng những người trí thức, hoặc không trí thức, tham gia công tác phản biện xã hội. Không có phản biện, xã hội đã chết lâm sàng…”

    Hai là của GS Chu Hảo:

    Không có tư duy phản biện, không phải là trí thức.

    Và “Những từ ngữ “trí thức phản biện”, “trí thức trùm chăn”, “trí ngủ”, “ngụy trí thức”, “trí thức xu thời”, rồi “trí thức sẻ chia” lại được gọi tên” – Vietnamnet.vn

    Rất khó có thể làm rõ ý nghĩa của hai từ “Trí Thức”. Trên báo chí, cộng đồng bloger, trên từ điển Bách Khoa toàn thư … đều có cách lý giải riêng và theo nhứng đứa trẻ con chúng tôi thì “Ai cũng đúng cả”. Vậy đâu là trí thức? và những từ “trí thức phản biện”, “trí thức trùm chăn”, “trí ngủ”, “ngụy trí thức”, “trí thức xu thời”, rồi “trí thức sẻ chia” sẽ phải được hiểu theo nghĩa nào?

    Trẻ tôi không dám định nghĩa lại hai từ đó bởi vì Trẻ tôi còn kém cỏi lắm, nhận thức đã non nớt vậy mà các vị giáo sư, nhà báo, nhà văn, các vị blogger nổi tiếng cứ viết, cứ phát ngôn và “cãi” rùm beng và cái “bệnh dùng chữ” lại được phát huy triệt để. Để rồi chỉ có những người được mệnh danh là “Trí Thức” hay những người tự con mình là “Trí Thức” mới có thể hiểu được hoặc tự cho mình hiểu.

    Vậy Trí Thức phải là những người như thế nào? Có cần phải có tri thức không? hay chỉ cần làm ra sản phẩm là được? hay anh ta chỉ cần có phản biện xã hội?

    Theo Trẻ tôi thấy Trí thức bắt buộc anh phải có Tri thức (Sự hiểu biết), có thể dưới dạng “Hiện” hay “Ẩn”. Anh không có tri thức thì anh không thể làm ra được sản phẩm và anh cũng không thể phản biện xã hội. Vậy vấn đề mấu chốt ở đây là:

    Tri thức + Sản phẩm = Trí thức (1)

    hay:

    Tri thức + Phản biện xã hội = Trí Thức (2)

    Trẻ tôi thiên về (1) hơn. Bởi vì Trẻ tôi thực dụng hơn và trẻ hơn. Tôi không thích các vị “Bàn giấy”. Các vị này giỏi lý thuyết, giỏi hàn lâm và các vị cũng giỏi phản biện, bắt bẻ lắm. Nhưng khi đưa cho các vị một đống nguyên vật liệu và bảo các vị làm ra một sản phẩm thì số đông sẽ lắc đầu “Tôi bận lắm”.

    (1) cũng đúng với định nghĩa “Trí Thức” trong Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam “Trí thức (TT) là tầng lớp xã hội làm nghề lao động trí óc, trong đó, bộ phận chủ yếu là những người có học vấn cao, hiểu biết sâu rộng về chuyên môn của mình, có sáng tạo và phát minh.

    TT bao gồm các nhà khoa học, kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy giáo, thầy thuốc, luật sư, nhà văn, nghệ sĩ…

    TT xuất hiện cùng với việc tách lao động trí óc khỏi lao động chân tay, phát triển cùng với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật.

    TT không phải là một giai cấp riêng vì nó được thu hút từ nhiều giai cấp khác nhau, không có vị trí riêng trong hệ thống sản xuất xã hội.

    TT nói chung, thường nhạy cảm với cái mới, tiếp thu và truyền bá những tư tưởng cách mạng, tiến bộ trong nhân dân, có vai trò rất lớn đối với sự phát triển lịch sử, nhất là trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay…”

    Thật khó khăn cho Trẻ tôi khi tìm hiểu về vấn đề này, lý do cũng chỉ tại các vị “Người lớn” giỏi phát ngôn (mà không chú thích) để cho lớp con trẻ hoang mang. Vậy thì tóm lại các vị cũng là những người thiếu trách nhiệm, các vị cũng chỉ khăng khăng giữ quan điểm của mình mà không đi xem xét các ảnh hưởng xoay quan vấn đề các vị nêu ra.

    Thay lời kết Trẻ tôi xin mượn lời nhạc sỹ Tô Hải “Xin thôi đi các vị trí thức khả kính của tôi!” Bởi vì chính những người có tầm ảnh hưởng đến lớp trẻ lại làm cho lớp con trẻ vốn đã non nớt thêm hoang mang và Trẻ tôi tin nếu một người nước ngoài nào giỏi tiếng Việt thì chắc chắn họ phải thốt lên rằng “Trí Thức Việt cũng chỉ giỏi võ mồm không kém cái đầu của họ”.

    Vinh, ngày 25/2/2012

    Nguồn : http://connitlysu.wordpress.com/2012/02/25/1/

    Mr. H

    18/03/2012 at 11:16

  24. Tri thức+ Sản phẩm (tồi)= Trí thức (dỏm ) –> trí thức này gây hại ; còn Tri thức + Phản biện XH ( tồi) =Trí thức (dở) –> chưa chắc đã gây hại cho Xh mà vẫn có khi làm XH giật mình để suy nghĩ (“Người trí thức có nhiệm vụ quấy rầy khi những người khác ngủ trong những định kiến của mình”. -theo quan điểm của GS NBC). Do đó tôi nghĩ công thức 2 về trí thức có vẻ phù hợp hơn

    6810

    05/02/2013 at 07:07


Bình luận về bài viết này